Các chế độ bôi trơn của dầu nhớt
Phân loại chất bôi trơn: Các loại chất bôi trơn phổ biến hiện nay được phân loại thành 03 dạng chính là Chất bôi trơn lỏng, chất bôi trơn bán lỏng và chất bôi trơn dạng rắn; trong đó các chất bôi trơn rắn thường được pha trộn với các môi chất đặc biệt nhằm thuận lợi cho việc sử dụng trong thực tế
Các chế độ bôi trơn: Trong các ứng dụng bôi trơn hiện nay, chủ yếu sử dụng các chế độ bôi trơn như sau:
– Chế độ bôi trơn thủy động
– Chế độ bôi trơn màng mỏng
– chế độ bôi trơn hỗ hợp
Đặc điểm
Chế độ bôi trơn thủy động: Xảy ra khi tải trọng nhỏ và vận tốc lớn, dầu được rút vào giữa hai bề mặt và chảy thành lớp; chiều dày lớp dầu lớn hơn nhiều so với chiều cao nhấp nhô của bề mặt chuyển động. Chế độ bôi trơn này là hiệu quả nhất vì giảm tối đa ma sát giữa hai bề mặt kim loại, chỉ còn nội ma sát của các lớp dầu. Máy móc trong các điều kiện làm việc bình thường được tính toán để làm việc ở chế độ bôi trơn này.
Chế độ bôi trơn màng mỏng: Là trường hợp ngược lại của bôi trơn thủy động; lúc này các bề mặt chuyển động ép sát vào nhau do tải trọng lớn và vận tốc lại rất nhỏ. Đây chính là lúc máy móc khởi động hoặc xuất hiện tải trọng va đập. Lớp dầu sẽ không đủ dày để ngăn cách các bề mặt, do đó ma sát và mài mòn là rất lớn. Đây là chế độ bôi trơn khắc nghiệt, yêu cầu dầu nhớt phải có các phụ gia chống mài mòn hiệu quả.
Chế độ bôi trơn hỗ hợp: là chế độ bôi trơn trung gian giữa chế độ bôi trơn thủy động và chế độ bôi trơn màng mỏng. Bề dày màng dầu tương đương với chiều cao lớp nhấp nhô của hai bề mặt nên không ngăn cách chúng hoàn toàn
Chế độ bôi trơn thủy động đàn hồi: là chế độ bôi trơn đặc biệt khi áp suất giữa hai bề mặt rất lớn như vị trí tiếp xúc giữa các bề mặt bánh răng, vấu cam. Áp suất cực cao (cực áp) làm cho lớp dầu rắn lại khiến cho bề mặt bị biến dạng, nếu biến dạng này quá lớn sẽ làm rỗ bề mặt. Trong trường hợp này, dầu nhớt cần có phụ gia cực áp để bảo vệ cho các bề mặt.